Công án đại loại là những câu chuyện ngắn thường diễn tả các sự việc, hành tác, ngôn ngữ, cử chỉ của các thiền sư dưới những hình thức rất nghịch lý, kỳ bí, khó hiểu.
Công án nói chung là để giảng dạy một đệ tử hay người đến tham vấn về một chân lý hay để đo lường xem họ đã thấu đạt chân lý đó bao nhiêu.
Công án là một loại biện chứng dùng ngôn ngữ và cấu trúc câu chuyện bất thường nhằm tạo sự sảng sốt, ngỡ ngàng để bắt buộc tri thức tìm ra câu giải đáp bên ngoài các nguyên lý hiểu biết thông thường.
Tương truyền rằng Phật Giáo Thiền Tông xưa nay có tổng cộng 1700 công án. Tuy vậy theo một nguồn sưu tập thì thật ra chỉ có khoảng hơn 500 công án; phần còn lại đều là trùng hợp, pha chế hoặc ngụy tạo.
Có một vài công án được nhiều người ngày nay biết đến, thí dụ như “Tiếng vỗ tay khi vỗ một bàn tay” hay “ngón tay chỉ mặt trăng” hay “Nếu gặp Phật hãy giết Phật”, “sư cõng cô gái qua suối”, v.v. Cấu trúc của các công án nầy khá khéo léo , nội dung tương đối rõ ràng dễ hiểu. Tuy vậy, những công án nầy bị lạm dụng thường xuyên, nhất là bởi những người mới vừa ngấp nghé đọc được vài quyển sách thiền. Chúng trở thành sáo ngữ nhàm chán, hiệu quả của chúng bị suy giảm trầm trọng.
Còn nhiều công án như “Hỏi Phật là gì, đáp ba cân mè” hay “Nếu gọi là gậy trúc thì xúc phạm, không gọi là gậy trúc thì trái nghịch” hay “Con chó có Phật tánh hay không?”, v.v. thì theo tôi chỉ là những câu chuyện nhạt nhẽo, gượng ép, xử dụng nghịch lý một cách quá đáng đến độ hầu như vô dụng.
Vô dụng là vì nếu những tư tưởng triết lý mà các công án nầy đang cố gắng biện giải đã rất phức tạp thì những mẩu chuyện khúc mắc cùng cực một cách không cần thiết như vậy sẽ không giúp đỡ được gì mà còn người nghe dễ phân tâm hơn. Mục tiêu của Phật pháp ngay cả khi nó được diễn tả bằng các từ ngữ giản dị nhất vẫn còn quá khó khăn cho vô số hành giả có thể nhìn thấy, và thực hành, được thì những mẩu chuyện cầu kỳ nầy chỉ góp phần làm mù mịt thêm con đường họ đi.
Nhiều công án không có câu trả lời nào nhất định. Tùy người trả lời là ai và trong hoàn cảnh nào mà một câu trả lời có thể đúng, và cũng có thể sai. Sự kiện nầy càng làm cho người tham khảo rối rắm và dễ lạc hướng thêm.
Những công án nầy do đó có thể là những bài tập thú vị về suy luận triết lý để thể thao trí não hơn là những dụng cụ hữu hiệu để đưa đến sự giác ngộ trong Phật pháp. Nói cách khác, nếu một phương cách truyền dạy mà đa số những người có trình độ thông minh trung bình không thể hiểu được thì đó không phải là một phương cách có ích lợi lắm.
Có người cho rằng những công án cầu kỳ hầu như tối nghĩa như vậy giúp cho hành giả đập bỏ tất cả những tư duy, nhận thức thông thường sẵn có để đặt ra những nghi vấn mà quán xét khả năng trí tuệ của họ cũng như nghiền ngẫm về chân lý Phật pháp. (Có thiền sư dạy “Nghi lớn thì ngộ lớn” hay là “Hãy tận dụng 360 xương cốt, tám vạn bốn ngàn lỗ chân lông, vận dụng cả thân tâm, khởi thành một mối nghi”).
Tôi cũng chủ trương “luôn luôn nghi vấn”. Tuy nhiên tôi cho rằng dùng các công án tối nghĩa như trên để đề xướng chủ trương nầy là một phương cách vòng vo kém hiệu quả và phức tạp không cần thiết. Nếu những mẩu chuyện trên có thật đi nữa thì cũng chỉ để các thiền sư biểu dương các kiến thức siêu việt của họ hơn là để thật sự truyền dạy các kiến thức đó.
Nhiều công án kể rằng khi một người sực nhận thức ra được ý nghĩa của câu chuyện thì “lập tức giác ngộ” hoặc có khi “lập tức đắc đạo”. Điều nầy dễ gây ra sự hiểu lầm là khi một người nhận hiểu được công án nào đó thì họ phát mở được trí tuệ/huệ có thể dẫn dắt đến sự giải thoát. Rất nhiều công án không liên quan gì đến các ý niệm diễn tả trong Tứ Diệu Đế của Thích Ca. Trong khi đó, theo Thích Ca thì sự giải thoát chỉ có thể đạt được bằng cách thực hành các ý niệm nầy. Do đó nếu theo Thích Ca thì làm sao các công án trên dẫn đến giác ngộ?
Thêm nữa, đa số các công án có vẻ đã được ghi chép lại bởi một người thứ ba về vài lời nói hay cử chỉ gì đó trao đổi giữa một thiền sư và một người thứ hai. Thắc mắc của tôi:
1/ Làm sao ai biết rõ ràng được rằng người thứ hai đó có thật sự thấu hiểu ý nghĩa thâm sâu của các lời nói hay cử chỉ nầy hay không? Nếu điều ấy có xảy ra đi nữa thì nó cũng chỉ xảy ra trong đầu của người nầy.
2/ Thế thì làm sao thiền sư trong cuộc biết chắc chắn rằng đối tượng có thấu hiểu hay không?
3/ Nếu một người thứ ba có mặt ở đó để ghi chép lại thì họ cũng cần phải thấu hiểu được chuyện nầy và do đó người đó cũng cần phải “giác ngộ” hay “đắc đạo” giống như người thứ hai! Thế mà tại sao không bao giờ có công án nào đề cập đến người thứ ba nầy?
Tôi do đó nghi ngờ rằng các công án nầy đã không thật sự xảy ra mà chỉ là những câu chuyện được tạo dựng lên với mục đích giáo dục hay diễn giải.
Tôi cho rằng nhiều (nhưng không phải tất cả) công án chỉ là những mẩu chuyện nói chung vô bổ ích và mất thì giờ.
Công án không dạy cho ai những gì mà họ đã không biết rồi. Nếu một người đã suy nghiệm đủ về chân lý của họ và nếu tri thức họ đã đạt đến một trình độ triết lý nào đó rồi thì nhìn ở đâu, nghe cái gì cũng thấy câu hỏi, và câu trả lời.
Nếu một người có trí tuệ non kém, hay bản chất yếu hèn, hay có tập tính học từ chương, thì họ cũng sẽ chỉ lệ thuộc vào người khác để chỉ dạy cho câu trả lời là gì. Nhưng nếu đã vậy thì công án sẽ không còn có giá trị và ý nghĩa nữa vì nó sẽ chỉ trói cột tri thức của họ lại giống như sợi dây trói cột con trâu không cho nó tự do ăn cỏ bên ngoài phạm vi chiều dài của sợi dây đó.
Công án có thể có một “ích lợi” lớn: một người có thể đề cập đến chúng khi tranh luận về những đề tài triết lý để tỏ ra mình là một người hiểu biết cao siêu, và không ai có thể biết rằng họ hiểu biết cái gì bao nhiêu cả.
Có người sẽ nói vì tôi không có trình độ hiểu nổi các công án nên mới cho chúng là vô bổ ích và mất thì giờ.
Vấn đề ở đây theo tôi không phải là hiểu hay giải được các công án cầu kỳ gút mắc của các thiền sư, hay ai đó, đưa ra. Theo tôi vấn đề ở đây là có khả năng nhận thấy rằng chúng có giá trị gì hơn là những mẩu chuyện giải trí qua ngày hay không.
Thần Linh và Tượng Giấy
Bài 89: Không cần Bái Lạy Phật
Có lần tôi nói “Chỉ khi nào ngay cả gặp Phật bên đường mà không còn thấy cần bái lạy nữa thì mới là hiểu Phật pháp”.
Có người sửa tôi rằng “Chỉ khi nào hiểu Phật pháp rồi thì gặp Phật bên đường mới không còn thấy cần bái lạy nữa”. Tôi đồng ý.
Đáng tiếc là đại đa số tăng sư lẫn Phật tử không hề có cái ý niệm đó, chớ nói chi đến việc hiểu nghĩa câu nào ở trên muốn nói gì.
Ngay cả những người cho rằng họ hiểu nó thì lại quá bận rộn mù quáng quỳ mọp trước cái gọi là tôn giáo của Phật để đứng lên đi theo con đường của ông.
Bài 88: Khắc Đẽo cho ra Phật
Có người cho rằng tôi “khắc đẽo bỏ phần dư thừa của Phật Giáo để tìm cho ra Phật”.
Tôi không nghĩ như vậy. Tôi nghĩ thí dụ như ông Thích Thông Lạc chẳng hạn (là một người có nhiều quan điểm tương tự với tôi về lời dạy của Thích Ca) mới có lẽ là một người “khắc đẽo để cho ra Phật”. Vì ông là một tu sĩ nên lý luận của ông có khuynh hướng cần phải “làm cho ra” một Phật để có mà tu. Điều nầy tự nhiên và không có gì sai trái cả.
Tôi không nghĩ như vậy. Tôi nghĩ thí dụ như ông Thích Thông Lạc chẳng hạn (là một người có nhiều quan điểm tương tự với tôi về lời dạy của Thích Ca) mới có lẽ là một người “khắc đẽo để cho ra Phật”. Vì ông là một tu sĩ nên lý luận của ông có khuynh hướng cần phải “làm cho ra” một Phật để có mà tu. Điều nầy tự nhiên và không có gì sai trái cả.
Điểm khác biệt ở đây là tôi không là một Phật tử. Tôi chỉ xem Thích Ca là một triết gia chớ không phải là một giáo chủ.
Tuy vậy như đã nói, nhân sinh quan của tôi chịu ảnh hưởng bởi một số triết lý mà tôi cho là của Thích Ca. Tuy vậy đối với tôi, có Phật hay không có Phật cũng không quan trọng. (Và tôi nghĩ Thích Ca nếu hiện diện cũng không quan tâm đến việc tôi có coi ông ấy quan trọng hay không). Do đó, tôi hy vọng là lý luận của tôi ở đây không mang tính chất chủ quan của một người lý luận với một mục đích (“có Phật, Phật là gì”) cần phải đạt đến.
Điều quan trọng đối với tôi là sống cho được một phần nào theo cái triết lý đó trong cuộc đời nầy.
Bài 87: Chiếc Bè
Có xứ nọ ở bên bờ một con sông rộng. Sông chảy ra biển khơi. Đời sống trong xứ đầy đau khổ. Nghe đồn rằng bên kia bờ sông có một đời sống tốt đẹp hơn. Ai cũng muốn đi qua bờ bên kia, tuy nhiên không ai biết đóng tàu thuyền cả.
Chuyện kể rằng ngày nọ có một người đóng được một chiếc thuyền. Ông dạy lại một số người cách đóng thuyền rồi vượt sông đi mất.
Ngày tháng trôi qua, những người đóng thuyền thay vì làm đúng theo lời dạy trên lại bắt đầu theo ý riêng của họ thêm bớt sửa đổi nhiều thứ. Họ chú trọng làm thế nào để chiếc thuyền được chạm trổ đẹp mắt với màu mè sặc sỡ và đầy đủ chỗ ăn ở tiện nghi, rộng rãi. Khách càng thích những chiếc thuyền loại nầy thì thợ đóng thuyền càng chế đặt thêm ra đủ loại phương tiện hình thức cầu kỳ, phức tạp, hào nhoáng trên thuyền.
Không bao lâu sau những thứ họ đóng không còn là những chiếc thuyền có thể vượt sông rộng nữa mà trở thành những chiếc bè cồng kềnh, nặng nề, chậm chạp, và vô dụng.
Khi người ta bước lên những chiếc bè nầy, họ bị phân tâm và thu hút bởi hình dáng huy hoàng và kích thước vĩ đại của chúng. Họ cho rằng những chiếc bè hùng vĩ nầy sẽ đưa họ an toàn và thoải mái đến nơi họ muốn đến.
Tuy vậy, những chiếc bè cồng kềnh, nặng nề, chậm chạp, và vô dụng nầy khi rời bến đều bị giòng sông cuốn trôi mất ra biển khơi trước khi chúng đến được bờ bên kia.
Sông rộng, một khi đã đi qua là không thể trở lại. Và bên bờ sông nầy người ta tiếp tục bước lên những chiếc bè tương tự với ảo vọng qua được bờ bên kia để sống một cuộc đời tươi đẹp.
Bài 86: Tóm Lược Những Bài "Phật Giáo Không Tín Ngưỡng Không Tôn Giáo" và "Kinh Sách Phật Giáo" vừa rồi
Hỏi: Vậy thì làm sao biết cái gì là tinh túy của Phật Giáo (tức là lời dạy nguyên thủy thật sự của Thích Ca)?
Đáp: Cách hiểu và hành đạo của mỗi tông phái trong Phật Giáo đều khác nhau ít nhiều. Tuy vậy, hầu như tất cả tông phái chính đều truyền giảng một số triết lý chung và giống nhau. Nếu lựa chọn ra những triết lý chung và giống nhau nầy thì có thể cho chúng là lời dạy nguyên thủy thật sự của Thích Ca.
Hỏi: Các tông phái có những triết lý gì “chung” hay “giống nhau”?
Đáp: Chỉ có Tứ Diệu Đế, trong đó có 37 Phẩm Trợ Đạo, là được truyền dạy bởi hầu hết mọi tông phái Phật Giáo với nội dung giống nhau. Những quan niệm liên quan trực tiếp với Tứ Diệu Đế như “vô ngã”, “vô thường”, “duyên khởi”, “giác ngộ” cũng vậy. (Tuy nhiên, vài quan niệm nầy có khi được diễn giảng dưới những màu sắc huyền bí; thí dụ như nhiều kinh sách cho là khi “giác ngộ” thì sẽ “nhìn thấy được quá khứ, tương lai và muôn vạn thế giới khác”.)
Hỏi: Còn những triết lý hay quan niệm khác?
Đáp: Mỗi tông phái hiểu và giảng dạy về chúng một cách khác nhau và nhiều khi trái ngược hẳn nhau. Vì vậy có thể nghi ngờ rằng các triết lý hay quan niệm nầy, cũng như những phương cách tu và hành đạo dựa trên chúng, đã được chế biế sau nầy bởi các tăng sư. Thí dụ như tất cả những gì liên quan đến cầu khẩn tình duyên gia đạo mua may bán đắt, cứu độ, giải hạn, cầu an, cúng sao, trì chú, khoán bùa, bắt ấn, v.v.
Hỏi: Tương tự cho những quan niệm như “Tây Phương Cực Lạc”, “đầu thai”, “luân hồi”?
Đáp: Đúng vậy. Vì 2 lý do: 1/ trong Tứ Diệu Đế và các quan niệm liên quan trực tiếp với Tứ Diệu Đế hoàn toàn không có gì nói về “Tây Phương Cực Lạc”, “đầu thai”, “luân hồi”; và 2/ lúc sinh tiền Thích Ca không bao giờ giảng dạy hay trả lời các câu hỏi về các vấn đề nầy. Do đó có thể kết luận một cách thích đáng rằng chúng rất có thể không phải là khái niệm nguyên thủy thật sự của Thích Ca.
Đáp: Cách hiểu và hành đạo của mỗi tông phái trong Phật Giáo đều khác nhau ít nhiều. Tuy vậy, hầu như tất cả tông phái chính đều truyền giảng một số triết lý chung và giống nhau. Nếu lựa chọn ra những triết lý chung và giống nhau nầy thì có thể cho chúng là lời dạy nguyên thủy thật sự của Thích Ca.
Hỏi: Các tông phái có những triết lý gì “chung” hay “giống nhau”?
Đáp: Chỉ có Tứ Diệu Đế, trong đó có 37 Phẩm Trợ Đạo, là được truyền dạy bởi hầu hết mọi tông phái Phật Giáo với nội dung giống nhau. Những quan niệm liên quan trực tiếp với Tứ Diệu Đế như “vô ngã”, “vô thường”, “duyên khởi”, “giác ngộ” cũng vậy. (Tuy nhiên, vài quan niệm nầy có khi được diễn giảng dưới những màu sắc huyền bí; thí dụ như nhiều kinh sách cho là khi “giác ngộ” thì sẽ “nhìn thấy được quá khứ, tương lai và muôn vạn thế giới khác”.)
Hỏi: Còn những triết lý hay quan niệm khác?
Đáp: Mỗi tông phái hiểu và giảng dạy về chúng một cách khác nhau và nhiều khi trái ngược hẳn nhau. Vì vậy có thể nghi ngờ rằng các triết lý hay quan niệm nầy, cũng như những phương cách tu và hành đạo dựa trên chúng, đã được chế biế sau nầy bởi các tăng sư. Thí dụ như tất cả những gì liên quan đến cầu khẩn tình duyên gia đạo mua may bán đắt, cứu độ, giải hạn, cầu an, cúng sao, trì chú, khoán bùa, bắt ấn, v.v.
Hỏi: Tương tự cho những quan niệm như “Tây Phương Cực Lạc”, “đầu thai”, “luân hồi”?
Đáp: Đúng vậy. Vì 2 lý do: 1/ trong Tứ Diệu Đế và các quan niệm liên quan trực tiếp với Tứ Diệu Đế hoàn toàn không có gì nói về “Tây Phương Cực Lạc”, “đầu thai”, “luân hồi”; và 2/ lúc sinh tiền Thích Ca không bao giờ giảng dạy hay trả lời các câu hỏi về các vấn đề nầy. Do đó có thể kết luận một cách thích đáng rằng chúng rất có thể không phải là khái niệm nguyên thủy thật sự của Thích Ca.
Bài 85: Bình luận về kinh sách Phật Giáo nói chung
Tóm lại, các dữ kiện trên cho thấy tất cả cái gọi là kinh Phật hiện tại (Đại Thừa lẫn Tiểu Thừa) có thể chỉ chứa một phần rất nhỏ những lời dạy thật sự của Thích Ca. (Hoặc nếu có đi nữa thì cũng không biết là chính xác bao nhiêu.)
Ngay cả những đệ tử thân tín nhất của Thích Ca không bao lâu sau khi ông chết đã bắt đầu bất đồng ý với nhau về nội dung và ý nghĩa của những lời ông dạy. Sự bất đồng ý nầy vẫn còn kéo dài qua hơn 2000 năm nay cho đến bây giờ.
Đại đa số những gì trong toàn thể hệ thống kinh điển của Phật Giáo đã được soạn thảo bởi tăng sư dựa trên kiến thức và tư tưởng của cá nhân họ. Những kiến thức và tư tưởng nầy đã chịu ảnh hưởng trầm trọng bởi nhiều tôn giáo khác như Ấn Độ Giáo, Đạo Giáo, v.v. Phần lớn kinh sách Phật Giáo do đó đã bị pha chế, thêu dệt, thêm bớt qua nhiều thế kỷ bắt đầu từ ngay sau khi Thích Ca qua đời.
Nói cách khác, khi cầm bất cứ quyển kinh Phật hiện hành nào mà tuyên bố “Phật dạy rằng…” hay “Đây là Phật chánh pháp…” thì cái xác xuất “đúng” của câu phát biểu đó rất nhỏ.
Bài 84: Kinh Sách Phật Giáo Đại Thừa
Nguồn gốc về sự thành hình của kinh sách Phật Giáo Đại Thừa rất mù mờ.
Kinh sách đầu tiên của Đại Thừa bắt đầu xuất hiện về sau nầy, vào khoảng 300 đến 700 năm sau ngày Thích Ca qua đời, không rõ nguồn gốc xuất xứ rõ ràng từ đâu, không biết soạn giả là ai và soạn thảo vào thời kỳ nào. Kinh sách Đại Thừa ban đầu là vài bộ kinh ngắn rồi dần dà xuất hiện các bộ lớn hơn với văn phong không đồng nhất, và ngày nay cũng không còn nguyên bản trọn vẹn.
Một số kinh được lưu truyền đến ngày nay đã được dịch sang chữ Hán và chữ Tây Tạng qua nhiều thời kỳ khác nhau bởi nhiều dịch giả thuộc những tông phái khác nhau. Một số kinh bản chữ Hán khác không có nguồn gốc rõ ràng, mặc dù lấy danh là lời dạy của Thích Ca nhưng có lẽ đã được trước tác tại Trung Hoa trong những năm đầu Công Nguyên khi Phật Giáo vừa mới phát triển ở đó.
Bình luận về kinh sách Phật Giáo Đại Thừa:
Thời điểm thành hình trong lịch sử của Phật Giáo Đại Thừa cho thấy rõ ràng nội dung kinh sách của họ không phải là trực tiếp phát xuất từ lời Thích Ca dạy. Tất cả kinh sách Đại Thừa đều dựa lên sự nghe đi kể lại từ hàng chục thế hệ tăng sư sau khi Thích Ca qua đời.
Tính đa dạng và phong phú của kinh sách Đại Thừa cho thấy một sự dung nạp các tài liệu về Phật giáo một cách hỗn độn, không hệ thống và tiêu chuẩn rõ ràng. Kinh sách Đại Thừa còn có khi pha trộn các giáo thuyết khác thịnh hành trong thời bấy giờ: thí dụ như các yếu tố bùa chú hay quan niệm “thần tiên”, “thiên địa”, “âm dương”, “ngũ hành”, v.v. trong vài chi nhánh của Đại Thừa chính là do ảnh hưởng màu sắc của Đạo Giáo từ Trung Hoa.
Sự chia rẽ ra nhiều chi nhánh trong Phật Giáo Đại Thừa cũng cho thấy sự không thống nhất trong hệ thống tư tưởng, và do đó kinh sách, của họ. Sự khác biệt tương phản rõ rệt trong các thí dụ dưới đây không khỏi gây ra nỗi nghi ngờ thích đáng “rất có thể không có con đường của chi nhánh nào đang đi là thật sự của Thích Ca”.
Mật Tông là một chi nhánh Đại Thừa xuất hiện vào khoảng thế kỷ thứ 6 sau Công Nguyên từ Ấn Độ nhưng sau nầy thịnh hành ở Trung Hoa. Kim Cang Thừa cũng là một chi nhánh Đại Thừa tương tự như Mật Tông nhưng chỉ thịnh hành ở Tây Tạng. (Lạt Ma Giáo hiện tại ở Tây Tạng là một dạng của Kim Cang Thừa). Mật Tông và Kim Cang Thừa không dùng chung và không chấp nhận tất cả kinh sách của lẫn nhau. Cả hai chi nhánh đều chú trọng vào việc bắt ấn, đọc bùa, trì chú và những pháp thuật huyền bí khác.
Thiền Tông là một chi nhánh Đại Thừa xuất hiện cũng vào khoảng thế kỷ thứ 6 hay 7 sau Công Nguyên. Chi nhánh nầy chú trọng vào phương pháp thiền định và tránh xa những việc bùa chú huyền bí của Mật Tông và Kim Cang. Xuất phát từ Thiền Tông là những “Tổ” Thiền với những “công án” cầu kỳ và ý niệm “giác ngộ tức thì”.
Các chi nhánh khác của Đại Thừa như Tịnh Độ Tông, Hoa Nghiêm Tông, Thiên Thai Tông, Trung Quán Tông, Duy Thức Tông cũng đều có kinh sách riêng của họ và hầu như không ai dùng hay chấp nhận tất cả kinh sách của ai khác.
Bài 83: Kinh sách Phật Giáo Tiểu Thừa
Kinh sách Phật Giáo Tiểu Thừa nói chung có 3 tạng kinh chính: 1/ Những lời giảng dạy của Thích Ca hay của những Phật khác hay của những đệ tử chính của Thích Ca, 2/ Những điều lệ quy luật của tăng lữ, và 3/ Những diễn giảng từ lời dạy của Phật.
Nhiều sử gia đồng ý rằng 3 tạng kinh Phật đầu tiên được xem rằng "nguyên thủy" từ lời Thích Ca được soạn thảo bằng tiếng Pali (một dạng tiếng Phạn cổ - Sanskrit) vào thế kỷ thứ 1 trước Công Nguyên. Tuy vậy cũng có vài sử gia khác cho rằng các tạng kinh Phật đầu tiên thật ra ra đời giữa thế kỷ thứ 1 trước Công Nguyên và thế kỷ thứ 5 sau Công Nguyên.
Dưới đây là tóm lược quá trình thành hình của 3 tạng kinh đầu tiên của Phật Giáo Tiểu Thừa. Quá trình nầy nói chung được công nhận trong lịch sử Phật Giáo.
Đại Hội Tăng Lữ Thứ Nhất
Khoảng 3 tháng sau khi Thích Ca qua đời (khoảng năm 480 trước Công Nguyên), 500 đệ tử của ông họp nhau lại để thảo luận và xác định những gì Thích Ca đã giảng dạy cũng như bàn tính phương cách để gìn giữ những lời giảng dạy trên. Buổi họp nầy được gọi là Đại Hội Tăng Lữ Thứ Nhất.
Trong Đại Hội Thứ Nhất nầy, một học trò thân cận với Thích Ca nổi tiếng có trí nhớ giỏi là A-Nan được cử ra để đọc lên lại tất cả những lời dạy của Thích Ca mà ông đã nhớ. Những lời của A-Nan được Đại Hội suy nghiệm, bàn cãi trước khi được đồng ý cho là chính xác với lời Thích Ca đã dạy. Tất cả các lời kể lại của A-Nan đều bắt đầu bằng câu “Tôi đã nghe là…”; do đó tất cả các bài kinh về sau đều bắt đầu bằng câu nầy.
Đại Hội Thứ Nhất nầy cũng bàn luận và xác định những quy luật, nề nếp cần thiết cho giới tăng lữ.
Tất cả 500 đệ tử trong Đại Hội sau đó chia nhau để học thuộc lòng những gì mà họ đồng ý là lời của Thích Ca đã kể lại của A-Nan cũng như những quy luật, nề nếp cần thiết cho tăng lữ mà họ đã xác định. Họ tự cô lập khỏi thế giới bên ngoài để tránh bị phân tâm và đọc tụng lập đi lập lại những điều trên liên tục ngày đêm để khỏi quên.
Tuy vậy dù 500 đệ tử nầy có tinh tấn đến mấy thì thời gian cũng làm cho trí nhớ họ dần dần sai lệch đi. Từ thế hệ nầy sang thế hệ khác, các tăng lữ bắt đầu bất đồng ý với nhau về những gì họ nhớ thuộc lòng. Theo một số tài liệu lịch sử, trong khoảng 150 năm sau Đại Hội Thứ Nhất có 2 Đại Hội tương tự khác được tổ chức vì nhu cầu cần phải khảo xét và chỉnh đốn lại những gì các tăng lữ cho là lời dạy của Thích Ca được gìn giữ trong trí nhớ của họ.
Đại Hội Tăng Lữ Thứ Ba
Khoảng năm 250 trước Công Nguyên, Đại Hội Tăng Lữ Thứ Ba xảy ra. Tại Đại Hội nầy, các tăng lữ bàn thảo và quyết định đúc kết ra 3 tạng kinh chính của Phật Giáo Nguyên Thủy.
Họ phối hợp tất cả những lời dạy của Thích Ca trong trí nhớ họ từ Đại Hội Thứ Nhất đến giờ (cộng thêm một số bài kinh nữa soạn ra trong Đại Hội Thứ Ba nầy) làm thành tạng kinh đầu tiên gọi là Kinh Tạng.
Họ cũng phối hợp tất cả những quy luật, nề nếp cần thiết cho tăng lữ trong trí nhớ họ từ Đại Hội Thứ Nhất đến giờ lại làm thành tạng kinh thứ hai gọi là Luật Tạng. Không những các quy luật, nề nếp được liệt kê ra mà lý do tại sao những quy luật, nề nếp nầy cần thiết cũng được giải thích trong tạng kinh trên.
Các tăng lữ cũng soạn ra tạng kinh thứ ba gọi là Luận Tạng gồm có những lời bàn luận, phân tích, diễn giải của lời Thích Ca dạy (tức là của Kinh Tạng). Tục truyền rằng chính Thích Ca vài ngày sau khi giác ngộ (nghĩa là lúc ông còn sống) đã bắt đầu soạn thảo ra nội dung của tạng kinh thứ ba nầy trong đầu ông; 7 năm sau đó ông diễn thuyết tạng kinh nầy cho một nhóm thần linh và một học trò người trần tục duy nhất. Người học trò nầy sau đó kể lại cho các học trò khác nghe và họ cùng nhau đọc tụng thuộc lòng những bài kinh trong tạng nầy cũng tương tự như họ đã học thuộc lòng 2 tạng kinh kia.
Cho đến thời điểm nầy và mấy trăm năm sau đó, mặc dù 3 tạng kinh trên đã được đúc kết ra riêng biệt nhưng chúng vẫn tiếp tục được học thuộc lòng và truyền miệng từ thế hệ nầy sang thế hệ sau.
Đại Hội Tăng Lữ Thứ Tư
Ở Đại Hội Thứ Tư, lần đầu tiên 3 tạng chính của Phật Giáo Nguyên Thủy trên được ghi chép xuống bằng chữ viết (lên lá khô).
Một số sử gia cho rằng Đại Hội Tăng Lữ Thứ Tư nầy xảy ra ở Tích Lan vào năm 20 trước Công Nguyên, tức là gần 500 năm sau khi Thích Ca qua đời. Có sử gia cũng cho rằng nó có thể đã xảy ra 4 hay 5 trăm năm sau Công Nguyên, tức là khoảng 800 đến 1000 năm sau khi Thích Ca qua đời.
Bình luận về kinh sách Phật Giáo Tiểu Thừa
Quá trình thành hình của bộ kinh đầu tiên và quan trọng nhất của Phật Giáo Tiểu Thừa có một sự kiện nổi bật. Đó là khoảng thời gian rất dài mà các tăng sư đã phải gìn giữ và truyền dạy lời của Thích Ca bằng cách chỉ dựa vào trí nhớ của họ.
(Một trong những lý do rất khả dĩ tại sao 500 đệ tử của Thích Ca lúc đó chỉ học thuộc lòng thay vì ghi chép lại những gì họ đồng ý trong Đại Hội Tăng Lữ Thứ Nhất là vì họ không biết chữ. Một giả định khó phản bác được là số người biết chữ trong toàn xã hội Ấn Độ 2500 năm về trước rất có thể rất rất ít.)
Theo lịch sử thì sau khi Thích Ca qua đời, lần đầu tiên mà những lời dạy của ông được ghi chép xuống bằng chữ nếu sớm nhất là gần 500 năm sau đó, và nếu trễ nhất cũng có thể là 900 hay 1000 năm sau đó. (Cần nhớ là ở thời điểm đó của nhân loại, mỗi đời người chỉ sống trung bình khoảng 40-50 năm mà thôi).
Toàn bộ 3 tạng kinh Phật nầy khi dịch ra các ngôn ngữ hiện nay dầy trung bình mấy ngàn trang giấy, trong đó chứa nhiều Quyển, nhiều Chương, nhiều Tập. Khi phải truyền khẩu nhau từ đời nầy sang đời khác qua 10 (hay có thể 20) thế hệ một số lượng văn chương câu chữ khổng lồ chứa đựng những tư tưởng phức tạp và mới lạ như thế là một điều cực kỳ khó khăn. Và do đó những nhầm lẫn, sai lạc chắc chắn không thể tránh khỏi.
(So sánh với một trò chơi trong Hướng Đạo: 1/ Xếp một hàng dài 15, 20 sói con, 2/ Sói trưởng đưa cho sói con đứng đầu đọc một mảnh giấy viết về một câu chuyện gì đó dài năm bảy câu, xong rồi lấy mảnh giấy lại, 3/ Sói con đầu tiên nầy kề tai kể lại toàn bộ câu chuyện cho sói con thứ 2 đứng kế sau, 4/ Rồi sói con thứ 2 kề tai kể cho sói con thứ 3, lần lượt như vậy cho đến hết hàng, 5/ Sói con cuối cùng sẽ phải kể lại lớn lên cho mọi người cùng nghe về câu chuyện đó. Kết quả là 100 lần như một, tất cả đều lăn ra cười khi so sánh lại và thấy câu chuyện cuối cùng khác hẳn với câu chuyện ban đầu trong mảnh giấy của Sói trưởng bao nhiêu.
Trò chơi nầy khi được dùng trong những khóa huấn luyện về truyền thông tin tức dữ kiện cho các giám đốc cao cấp của các công ty lớn cũng đi đến một kết quả tương tự.
Trong một khoảng thời gian không hơn 10 phút, với một câu chuyện giản dị không dài quá 10 câu, mà sự thiếu chính xác trầm trọng trong việc truyền miệng kể lại từ người nầy sang người khác còn không tránh được thì làm sao, như đã nói ở trên, những lầm lẫn sai lạc không xảy ra khi phải truyền khẩu một số lượng câu chữ khổng lồ chứa đựng những tư tưởng phức tạp qua nhiều thế hệ?)
Trong khoảng thời gian nầy, tư tưởng tín ngưỡng trong xã hội Ấn Độ chịu ảnh hưởng mạnh mẽ bởi Ấn Độ Giáo cũng như bởi nhiều tôn giáo phụ khác. Sau 10 đến 20 thế hệ thì những ảnh hưởng nầy chắc chắn phải có tác động ít nhiều lên tư tưởng của những tăng sư Phật Giáo. Khi tư tưởng của một người bị ảnh hưởng thì những gì nằm trong trí nhớ của họ cũng có khuynh hướng bị ảnh hưởng tương tự.
Hơn nữa như đã nói, ngay sau khi Thích Ca qua đời đã có nhiều sự bất đồng ý giữa các đệ tử về cách diễn giảng những lời dạy của ông. Đó có thể là lý do tại sao lịch sử Phật Giáo cho thấy không chỉ có một cái gọi là “Luận Tạng” (những lời diễn giảng của các đệ tử thân cận của Thích Ca về lời dạy của ông) duy nhất. Thí dụ như hiện tại có một Luận Tạng bằng tiếng Sanskrit mà nội dung hoàn toàn khác hẳn với một Luận Tạng khác bằng tiếng Pali. Đồng thời cũng có một số các ấn bản cổ (tuy không toàn bộ) của các Luận Tạng khác nữa bằng các ngôn ngữ khác với những nội dung khác hẳn nữa.
Hơn thế nữa, ngoài 3 tạng kinh “nguyên thủy” của Phật Giáo Tiểu Thừa kể trên, vài sử gia còn đưa ra nhiều bằng chứng có vẻ cho thấy rằng còn có thể có các Tam Tạng Kinh “nguyên thủy” khác nữa đã thất lạc trong lịch sử.
Nhiều sử gia đồng ý rằng 3 tạng kinh Phật đầu tiên được xem rằng "nguyên thủy" từ lời Thích Ca được soạn thảo bằng tiếng Pali (một dạng tiếng Phạn cổ - Sanskrit) vào thế kỷ thứ 1 trước Công Nguyên. Tuy vậy cũng có vài sử gia khác cho rằng các tạng kinh Phật đầu tiên thật ra ra đời giữa thế kỷ thứ 1 trước Công Nguyên và thế kỷ thứ 5 sau Công Nguyên.
Dưới đây là tóm lược quá trình thành hình của 3 tạng kinh đầu tiên của Phật Giáo Tiểu Thừa. Quá trình nầy nói chung được công nhận trong lịch sử Phật Giáo.
Đại Hội Tăng Lữ Thứ Nhất
Khoảng 3 tháng sau khi Thích Ca qua đời (khoảng năm 480 trước Công Nguyên), 500 đệ tử của ông họp nhau lại để thảo luận và xác định những gì Thích Ca đã giảng dạy cũng như bàn tính phương cách để gìn giữ những lời giảng dạy trên. Buổi họp nầy được gọi là Đại Hội Tăng Lữ Thứ Nhất.
Trong Đại Hội Thứ Nhất nầy, một học trò thân cận với Thích Ca nổi tiếng có trí nhớ giỏi là A-Nan được cử ra để đọc lên lại tất cả những lời dạy của Thích Ca mà ông đã nhớ. Những lời của A-Nan được Đại Hội suy nghiệm, bàn cãi trước khi được đồng ý cho là chính xác với lời Thích Ca đã dạy. Tất cả các lời kể lại của A-Nan đều bắt đầu bằng câu “Tôi đã nghe là…”; do đó tất cả các bài kinh về sau đều bắt đầu bằng câu nầy.
Đại Hội Thứ Nhất nầy cũng bàn luận và xác định những quy luật, nề nếp cần thiết cho giới tăng lữ.
Tất cả 500 đệ tử trong Đại Hội sau đó chia nhau để học thuộc lòng những gì mà họ đồng ý là lời của Thích Ca đã kể lại của A-Nan cũng như những quy luật, nề nếp cần thiết cho tăng lữ mà họ đã xác định. Họ tự cô lập khỏi thế giới bên ngoài để tránh bị phân tâm và đọc tụng lập đi lập lại những điều trên liên tục ngày đêm để khỏi quên.
Tuy vậy dù 500 đệ tử nầy có tinh tấn đến mấy thì thời gian cũng làm cho trí nhớ họ dần dần sai lệch đi. Từ thế hệ nầy sang thế hệ khác, các tăng lữ bắt đầu bất đồng ý với nhau về những gì họ nhớ thuộc lòng. Theo một số tài liệu lịch sử, trong khoảng 150 năm sau Đại Hội Thứ Nhất có 2 Đại Hội tương tự khác được tổ chức vì nhu cầu cần phải khảo xét và chỉnh đốn lại những gì các tăng lữ cho là lời dạy của Thích Ca được gìn giữ trong trí nhớ của họ.
Đại Hội Tăng Lữ Thứ Ba
Khoảng năm 250 trước Công Nguyên, Đại Hội Tăng Lữ Thứ Ba xảy ra. Tại Đại Hội nầy, các tăng lữ bàn thảo và quyết định đúc kết ra 3 tạng kinh chính của Phật Giáo Nguyên Thủy.
Họ phối hợp tất cả những lời dạy của Thích Ca trong trí nhớ họ từ Đại Hội Thứ Nhất đến giờ (cộng thêm một số bài kinh nữa soạn ra trong Đại Hội Thứ Ba nầy) làm thành tạng kinh đầu tiên gọi là Kinh Tạng.
Họ cũng phối hợp tất cả những quy luật, nề nếp cần thiết cho tăng lữ trong trí nhớ họ từ Đại Hội Thứ Nhất đến giờ lại làm thành tạng kinh thứ hai gọi là Luật Tạng. Không những các quy luật, nề nếp được liệt kê ra mà lý do tại sao những quy luật, nề nếp nầy cần thiết cũng được giải thích trong tạng kinh trên.
Các tăng lữ cũng soạn ra tạng kinh thứ ba gọi là Luận Tạng gồm có những lời bàn luận, phân tích, diễn giải của lời Thích Ca dạy (tức là của Kinh Tạng). Tục truyền rằng chính Thích Ca vài ngày sau khi giác ngộ (nghĩa là lúc ông còn sống) đã bắt đầu soạn thảo ra nội dung của tạng kinh thứ ba nầy trong đầu ông; 7 năm sau đó ông diễn thuyết tạng kinh nầy cho một nhóm thần linh và một học trò người trần tục duy nhất. Người học trò nầy sau đó kể lại cho các học trò khác nghe và họ cùng nhau đọc tụng thuộc lòng những bài kinh trong tạng nầy cũng tương tự như họ đã học thuộc lòng 2 tạng kinh kia.
Cho đến thời điểm nầy và mấy trăm năm sau đó, mặc dù 3 tạng kinh trên đã được đúc kết ra riêng biệt nhưng chúng vẫn tiếp tục được học thuộc lòng và truyền miệng từ thế hệ nầy sang thế hệ sau.
Đại Hội Tăng Lữ Thứ Tư
Ở Đại Hội Thứ Tư, lần đầu tiên 3 tạng chính của Phật Giáo Nguyên Thủy trên được ghi chép xuống bằng chữ viết (lên lá khô).
Một số sử gia cho rằng Đại Hội Tăng Lữ Thứ Tư nầy xảy ra ở Tích Lan vào năm 20 trước Công Nguyên, tức là gần 500 năm sau khi Thích Ca qua đời. Có sử gia cũng cho rằng nó có thể đã xảy ra 4 hay 5 trăm năm sau Công Nguyên, tức là khoảng 800 đến 1000 năm sau khi Thích Ca qua đời.
Bình luận về kinh sách Phật Giáo Tiểu Thừa
Quá trình thành hình của bộ kinh đầu tiên và quan trọng nhất của Phật Giáo Tiểu Thừa có một sự kiện nổi bật. Đó là khoảng thời gian rất dài mà các tăng sư đã phải gìn giữ và truyền dạy lời của Thích Ca bằng cách chỉ dựa vào trí nhớ của họ.
(Một trong những lý do rất khả dĩ tại sao 500 đệ tử của Thích Ca lúc đó chỉ học thuộc lòng thay vì ghi chép lại những gì họ đồng ý trong Đại Hội Tăng Lữ Thứ Nhất là vì họ không biết chữ. Một giả định khó phản bác được là số người biết chữ trong toàn xã hội Ấn Độ 2500 năm về trước rất có thể rất rất ít.)
Theo lịch sử thì sau khi Thích Ca qua đời, lần đầu tiên mà những lời dạy của ông được ghi chép xuống bằng chữ nếu sớm nhất là gần 500 năm sau đó, và nếu trễ nhất cũng có thể là 900 hay 1000 năm sau đó. (Cần nhớ là ở thời điểm đó của nhân loại, mỗi đời người chỉ sống trung bình khoảng 40-50 năm mà thôi).
Toàn bộ 3 tạng kinh Phật nầy khi dịch ra các ngôn ngữ hiện nay dầy trung bình mấy ngàn trang giấy, trong đó chứa nhiều Quyển, nhiều Chương, nhiều Tập. Khi phải truyền khẩu nhau từ đời nầy sang đời khác qua 10 (hay có thể 20) thế hệ một số lượng văn chương câu chữ khổng lồ chứa đựng những tư tưởng phức tạp và mới lạ như thế là một điều cực kỳ khó khăn. Và do đó những nhầm lẫn, sai lạc chắc chắn không thể tránh khỏi.
(So sánh với một trò chơi trong Hướng Đạo: 1/ Xếp một hàng dài 15, 20 sói con, 2/ Sói trưởng đưa cho sói con đứng đầu đọc một mảnh giấy viết về một câu chuyện gì đó dài năm bảy câu, xong rồi lấy mảnh giấy lại, 3/ Sói con đầu tiên nầy kề tai kể lại toàn bộ câu chuyện cho sói con thứ 2 đứng kế sau, 4/ Rồi sói con thứ 2 kề tai kể cho sói con thứ 3, lần lượt như vậy cho đến hết hàng, 5/ Sói con cuối cùng sẽ phải kể lại lớn lên cho mọi người cùng nghe về câu chuyện đó. Kết quả là 100 lần như một, tất cả đều lăn ra cười khi so sánh lại và thấy câu chuyện cuối cùng khác hẳn với câu chuyện ban đầu trong mảnh giấy của Sói trưởng bao nhiêu.
Trò chơi nầy khi được dùng trong những khóa huấn luyện về truyền thông tin tức dữ kiện cho các giám đốc cao cấp của các công ty lớn cũng đi đến một kết quả tương tự.
Trong một khoảng thời gian không hơn 10 phút, với một câu chuyện giản dị không dài quá 10 câu, mà sự thiếu chính xác trầm trọng trong việc truyền miệng kể lại từ người nầy sang người khác còn không tránh được thì làm sao, như đã nói ở trên, những lầm lẫn sai lạc không xảy ra khi phải truyền khẩu một số lượng câu chữ khổng lồ chứa đựng những tư tưởng phức tạp qua nhiều thế hệ?)
Trong khoảng thời gian nầy, tư tưởng tín ngưỡng trong xã hội Ấn Độ chịu ảnh hưởng mạnh mẽ bởi Ấn Độ Giáo cũng như bởi nhiều tôn giáo phụ khác. Sau 10 đến 20 thế hệ thì những ảnh hưởng nầy chắc chắn phải có tác động ít nhiều lên tư tưởng của những tăng sư Phật Giáo. Khi tư tưởng của một người bị ảnh hưởng thì những gì nằm trong trí nhớ của họ cũng có khuynh hướng bị ảnh hưởng tương tự.
Hơn nữa như đã nói, ngay sau khi Thích Ca qua đời đã có nhiều sự bất đồng ý giữa các đệ tử về cách diễn giảng những lời dạy của ông. Đó có thể là lý do tại sao lịch sử Phật Giáo cho thấy không chỉ có một cái gọi là “Luận Tạng” (những lời diễn giảng của các đệ tử thân cận của Thích Ca về lời dạy của ông) duy nhất. Thí dụ như hiện tại có một Luận Tạng bằng tiếng Sanskrit mà nội dung hoàn toàn khác hẳn với một Luận Tạng khác bằng tiếng Pali. Đồng thời cũng có một số các ấn bản cổ (tuy không toàn bộ) của các Luận Tạng khác nữa bằng các ngôn ngữ khác với những nội dung khác hẳn nữa.
Hơn thế nữa, ngoài 3 tạng kinh “nguyên thủy” của Phật Giáo Tiểu Thừa kể trên, vài sử gia còn đưa ra nhiều bằng chứng có vẻ cho thấy rằng còn có thể có các Tam Tạng Kinh “nguyên thủy” khác nữa đã thất lạc trong lịch sử.
Bài 82: Kinh Sách Phật Giáo
Thiên Chúa Giáo nói chung chỉ có một quyển Kinh Thánh duy nhất (tuy không hẳn là như vậy, nhưng tôi sẽ nói chi tiết và dẫn chứng về việc nầy vào một dịp khác), trong khi đó Phật Giáo có hàng ngàn vạn kinh sách khác nhau.
Trong khi Kinh Thánh được xem là "lời dạy nguyên văn từng chữ từng câu trực tiếp từ Thiên Chúa được ghi chép lại bằng cách thông linh qua tín đồ", kinh Phật được xem nói chung là lời truyền dạy của Phật Thích Ca (và có khi của các Phật khác) đã được ghi chép và diễn giảng lại bởi tín đồ. Những gì trong kinh Phật không phải là nguyên văn lời dạy của Thích Ca (hay của các Phật khác).
Tất cả kinh sách trong Phật Giáo đã được sao đi chép lại, sửa đổi biến cải thêm bớt tùy theo sự nhận hiểu của mỗi soạn giả. Một số kinh mang nội dung và triết lý cơ bản khác hẳn, và có khi đối nghịch, với các kinh khác. Không có một tạng kinh nào được tất cả mọi tông phái trong Phật Giáo công nhận là lời truyền dạy chính thật của Thích Ca. Mỗi tông phái có những kinh sách mà họ xem là quan trọng hơn những kinh sách khác.
Không bao lâu sau khi Thích Ca qua đời thì Phật Giáo bắt đầu chia ra thành nhiều tông phái khác nhau. Lý do chính là vì những đệ tử của Thích Ca hiểu và diễn giải lời dạy của ông nhiều cách khác nhau. Không ai đồng ý hoàn toàn với ai do đó họ tách ra thành những con đường riêng biệt, có những con đường khác hẳn nhau về nhiều mặt.
(Một điều cần phải ca ngợi là trong lịch sử Phật Giáo, sự khác biệt về ý tưởng nầy không bao giờ gây ra những bất hòa đổ máu; trong khi đó thì lịch sử Thiên Chúa Giáo cho thấy tín đồ Công Giáo và Tin Lành đã không ngần ngại tàn sát nhau trong quá trình tranh giành xem ai hiểu Kinh Thánh đúng nhất).
Hiện tại thì Phật Giáo nói chung chỉ còn hai tông phái chính: Phật Giáo Đại Thừa (còn gọi là Bắc Tông) và Phật GiáoTiểu Thừa (còn gọi là Nam Tông hay Nguyên Thủy).
Phái Tiểu Thừa không công nhận kinh sách Đại Thừa là "nguyên thủy" trong khi phái Đại Thừa nói chung công nhận giá trị của phần đông kinh sách Tiểu Thừa. Tuy vậy có một vài bản kinh mà phái Đại Thừa cho rằng của họ mới "nguyên thủy" hơn của phái Tiểu Thừa. Và phức tạp hơn nữa là nhiều chi nhánh trong Đại Thừa cũng không đồng ý lẫn nhau về một số kinh sách Đại Thừa của họ quyển nào là chính thực và quan trọng hơn quyển nào.
Bài 81: Thêm Vài Lời về Kinh Sách Phật Giáo
Hỏi: Anh nghĩ gì về kinh sách Phật Giáo?
Đáp: Hệ thống kinh sách của Phật Giáo cực kỳ rườm rà lượm thượm. Một số kinh chữ Phạn hoàn toàn vô nghĩa đối với đại đa số người Việt nhưng rất thịnh hành vì Phật tử bị quyến rũ bỡi những âm thanh “huyền bí” của chúng. Nhiều người cảm thấy thanh thản khi tụng những bài kinh nầy. Nhiều người khác cho rằng tuy không cần hiểu nghĩa nhưng khi tụng lên những câu kinh nầy thì âm thanh của chúng có những huyền lực làm cho những gì họ cầu khẩn có thể xảy ra.
Hỏi: Nhưng kinh Phật đâu phải chỉ có chữ Phạn mà thôi.
Đáp: Các kinh chữ Hán và chữ Nôm thì cũng không mấy gì khá hơn. Những bản dịch nầy tam sao thất bổn qua bao nhiêu đời, xuất xứ từ nhiều tông phái khác nhau, được nhiều tu sĩ với nhiều trình độ đạo lý, nhiều quan điểm khác nhau soạn thảo. Có những cuốn kinh không gì hơn là những câu chuyện mê tín dị đoan truyền kể lại.
Hỏi: Anh cho rằng không nên bám víu vào kinh sách. Nếu vậy thì làm sao người ta tìm học về đạo pháp được?
Đáp: Tôi cho rằng không nên bám víu khư khư vào kinh sách. "Khư khư" có nghĩa là cho rằng bất cứ cái gì viết trong bất cứ kinh sách nào cũng có giá trị tuyệt đối; là cho rằng những gì không có trong kinh sách là không đáng kể đến.
Hỏi: Nhưng chẳng phải kinh sách Phật Giáo là những ghi chép lại từ lời truyền dạy của Đức Phật hay sao?
Đáp: Cần nhớ rằng theo lịch sử thì Phật Thích Ca chỉ truyền đạo bằng miệng khi còn sống. Mấy trăm năm sau khi ông chết thì người ta mới bắt đầu ghi chép lại những lời dạy của ông. Vì vậy không có gì bảo đảm bất cứ kinh sách nào, dù xưa cũ bao nhiêu, ghi chép chính xác lời Thích Ca dạy. Có thể nói là tất cả kinh sách, và do đó triết lý Phật Giáo mà chúng ta có hiện nay, đều xuất phát từ sự hiểu biết và diễn giải lời của Thích Ca bởi tập hợp các tu sĩ trong vòng mấy trăm năm sau khi ông chết. Sự kiện sao đi chép lại và phiên dịch từ ngôn ngữ nầy sang ngôn ngữ khác qua 2500 năm làm cho nội dung và ý nghĩa nhiều kinh sách biến đổi đi hẳn. Hơn nữa, đối với tôi thì sự kiện Thích Ca đã có thật sự dạy một điều gì đó hay chăng không quan trọng lắm.
Hỏi: Tại sao?
Đáp: Việc quan trọng, theo tôi, là hãy dựa vào kiến thức và trí phán xét của mình để xem điều đó có thích ứng và thích hợp với nhân sinh quan và vũ trụ quan của mình không. Nếu thích ứng và thích hợp thì sử dụng, nếu không thì loại bỏ qua một bên. Việc một lời dạy có thật sự là từ chính miệng Phật Thích Ca hay không chỉ là thứ yếu.
Hỏi: Nhưng nếu một bài kinh thật sự là lời dạy của Phật Thích Ca thì chắc chắn nó phải có giá trị hơn chứ?
Đáp: Điều đó đúng, nhưng chỉ một phần nhỏ. Không ai có thể xác định chính xác nếu một lời dạy nào đó trong quyển kinh nào đó có thật sự 100% từ Thích Ca hay không. Thế thì tại sao phải chú trọng quá đáng vào việc đó? Một lời dạy nếu có giá trị đối với một người thì bất cứ nó đến từ ai cũng vẫn sẽ có giá trị. Và tương tự ngược lại.
Hỏi: Không phải ai cũng đồng ý về điều nầy.
Đáp: Người ta có khuynh hướng tin sợ những tên tuổi, tước vị lớn lao cao trọng. Điều đó thấy rõ trong việc nhiều người đi sao chép các bài thuyết pháp của các vị sư nổi tiếng hay có tước vị nghe đáng nễ trọng về ngâm nga hay trưng bày như những báu vật mà không cần suy ngẫm xem giá trị thật sự của nó là gì.
Hỏi: Theo anh thì kinh sách có thể được sử dụng như thế nào?
Đáp: Đọc kinh sách như đọc bất cứ tài liệu nào khác: dùng trí phân tích cùng kiến thức thực tế mà phán đoán một cách nghiêm khắc xem cái gì có giá trị, cái nào không. Nên nhớ rằng kinh sách chỉ là những sự hiểu biết và diễn giảng của con người mà thôi. Kinh sách không có giá trị thiêng liêng hay huyền bí gì cả. Đọc với tư cách một giám khảo chớ đừng đọc với tư tưởng của một học trò từ chương.
Hỏi: Nhưng có những cuốn kinh có giá trị nhiều hơn các cuốn kinh khác chớ?
Đáp: Đừng cho rằng kinh sách càng xưa cũ là càng có giá trị nguyên thủy và do đó càng đáng được quý trọng. Kinh sách xưa cũ có thể có giá trị lịch sử của chúng nhưng nội dung và tư tưởng chưa chắc đã mang giá trị thực dụng nữa. Lý thuyết Phật Giáo cổ động giá trị thực dụng. Nếu không thích ứng với đời sống là không có giá trị. Kinh sách được ghi chép và soạn thảo bởi các tu sĩ. Nội dung và tư tưởng của kinh sách thường phản ảnh nhân sinh quan và vũ trụ quan của những tác giả của chúng. Nhân sinh quan lẫn vũ trụ quan của những tu sĩ (dù có lỗi lạc thông thái đến mấy) cũng bị giới hạn bởi kiến thức nhân loại đương thời. Và kiến thức cũng như môi trường sống của nhân loại đã thay đổi rất nhiều trong vài thế kỷ gần đây.
Hỏi: Ngoài kinh sách ra thì còn cách nào khác để tìm hiểu về đạo?
Đáp: Đừng giới hạn việc tìm học đạo trong kinh sách mà thôi. Có nhiều tài liệu, luận án, khảo cứu về Phật Giáo trong những thập niên gần đây cung cấp những cách nhìn khác nhau về lý thuyết và triết lý Phật Giáo. Những quan điểm nầy dĩ nhiên không thích hợp với sự hiểu biết và phương cách thực hành của tất cả Phật tử nhưng nếu không tìm hiểu về chúng mà chỉ khư khư ôm ấp các tư tưởng xưa cũ hoài thì sẽ làm cho tầm nhìn của mình mãi hạn hẹp.
Subscribe to:
Posts (Atom)