Bài 69: Nhân Sinh Quan và Vũ Trụ Quan (tiếp theo)

Theo tôi thì hành giả cần từ bỏ hầu như toàn thể hệ thống tín ngưỡng trong Phật Giáo.

Mục tiêu tối hậu của Phật pháp nằm trong Tứ Diệu Đế. Hành giả cần nhận thấy rằng Niết Bàn, Địa Ngục, Tây Phương Cực Lạc, ma quỷ, đầu thai, luân hồi, nhân quả, phù phép, thần chú, v.v. chỉ là những khái niệm huyễn hoặc vô căn cứ và không cần thiết; các phương thức cúng bái, tụng niệm, nghi lễ chỉ là những hình thức rườm rà và vô ích. Chú trọng vào những khái niệm và phương thức nầy chỉ làm phân tâm hành giả trên con đường đi đến mục tiêu tối hậu của họ.

Có người cho rằng từ bỏ tín ngưỡng cũng như từ bỏ chiếc bè trước khi đi đến bờ sông bên kia. Họ cho rằng chiếc bè tín ngưỡng cung cấp một phương tiện cần thiết để những người chưa thấu hiểu Phật Giáo có cơ hội dần dần đi qua bên kia bờ sông. Nếu không thì những người nầy không có khả năng để nhảy liền một bước đến nơi họ cần đến.

Tôi không có vấn đề gì với chiếc bè. Tôi có vấn đề với sự bám víu khư khư vào chiếc bè như là cứu cánh tối hậu. Nếu không chịu, và không dám, buông bỏ chiếc bè đó ra sớm thì hành giả sẽ không bao giờ đến được bên kia bờ sông. Đời người rất ngắn ngủi, một ngày không xa thì hành giả và chiếc bè sẽ trôi theo dòng thời gian ra mất giữa biển khơi. Thích Ca chú trọng vào hiện tại và cuộc đời hiện có. Tôi cho rằng không có bằng chứng cho thấy cá thể tiếp tục hiện hữu sau khi chết. Những khái niệm như “tu hành để mai sau được vào Tây Phương Cực Lạc” là bỏ phí những gì có sẵn trong tay để ôm ấp ảo tưởng xa vời. Cơ hội bỏ phí nầy sẽ không bao giờ trở lại.

Có người cho rằng nếu không tin vào nghiệp phước, nhân quả thì hành động không còn có ý nghĩa và lý do để xảy ra nữa. Họ cho rằng nếu như vậy thì người ta không còn có lý do để làm việc thiện và việc thiện cũng không còn có ý nghĩa tốt đẹp của nó nữa.

Tôi cho rằng nếu làm việc thiện vì nghĩ đến nghiệp phước, nhân quả thì việc thiện đó không xuất phát từ lòng từ bi mà chỉ xuất phát từ lòng ích kỷ. Nếu như vậy thì cái đáng lẽ là việc thiện sẽ không còn có ý nghĩa tốt đẹp nữa.

Có người cho rằng nếu gạt bỏ tất cả những gì trong hệ thống tín ngưỡng của Phật Giáo thì Phật Giáo không còn là Phật Giáo nữa.

Tôi cho rằng Phật Giáo có còn là cái mà chúng ta gọi là Phật Giáo hay không cũng không là điều đáng quan tâm. Điều đáng chú trọng đến là mục tiêu chính của con đường mà Thích Ca đề xướng: nhận thức được sự khổ đau trong đời sống và phương cách để tiêu diệt sự khổ đau nầy. (Theo tôi thì “tiêu diệt” hơi quá chủ quan và “làm giảm thiểu” có lẽ thực tế hơn đối với đại đa số). Còn quan tâm đến việc bảo tồn cái tôn giáo gọi là Phật Giáo là còn ôm ấp chiếc bè tạm bợ mà quên mất mục tiêu chính là đi đến bờ tỉnh thức.

Theo tôi thì hầu như tất cả những hiện tượng và những khái niệm siêu nhiên đều là sản phẩm tưởng tượng và không quan trọng ngay cả nếu chúng có thật. Đối với tôi chỉ có khả năng nhận thức và suy luận bằng kinh nghiệm và kiến thức thực tế là có giá trị.

Có người cho rằng kiến thức và khả năng suy luận của con người rất giới hạn so với sự bao la của vũ trụ. Hoàn toàn đề cao kinh nghiệm thực tế và gạt bỏ đức tin về siêu nhiên là thiên về chủ nghĩa vật chất và kiêu ngạo quá đáng. Thái độ nầy làm hạ giá trị ít nhất là phần nào của triết lý Phật Giáo.

Tôi xác định rằng tôi chưa bao giờ gạt bỏ sự khả dĩ của các hiện tượng siêu nhiên. Đó là vì “tôi không biết”, và điều nầy khác hẳn với “tôi phủ nhận tất cả”. Trong khi các tôn giáo dựa vào các quan niệm huyễn hoặc vô căn cứ do họ tưởng tượng ra để khẳng định sự hiện hữu của những gì họ không biết rõ, tôi chỉ cho rằng cho đến khi kiến thức con người có thể chứng minh được các vấn đề nầy thì sự kiện chúng có thật hay không, và thật bao nhiêu, không quan trọng lắm. Những niềm tin trong tín ngưỡng do con người đặt ra bị giới hạn bởi kiến thức nhỏ hẹp của họ so với những bí ẩn bao la của vũ trụ và do đó vô nghĩa lý cũng như vô ích.

Có người cho rằng nếu từ bỏ khái niệm nghiệp phước mà chỉ dựa chuyện thiện ác vào sự nhận thức và trách nhiệm cá nhân thì xã hội có thể thoái hóa vào tình trạng hỗn loạn hay vô trật tự. Theo họ thì người ta phần đông chỉ chú trọng vào quyền lợi của họ, do đó xã hội cần có quy luật đạo đức rõ ràng cho mọi người cùng noi theo và phán quyết những gì là “đúng” hay “sai”.

Tôi hiểu được nỗi lo lắng bên trên. Tuy nhiên tôi cho rằng tôn giáo và tín ngưỡng không phải là những phương pháp đem lại đạo đức hữu hiệu như tín đồ nghĩ, nhất là với thái độ và tư tưởng của đại đa số tín đồ chúng ta thấy ngày nay. Phần lớn người ta thấy sự kiện họ là thành viên của một tôn giáo quan trọng hơn việc tôn giáo đó sẽ đưa họ đến đâu trên con đường tìm sự tỉnh thức. Những câu nói của tín đồ như “tôi sẽ chiến đấu để bảo vệ tôn giáo của tôi với bất cứ giá nào” mỗi khi có người phê phán đến tôn giáo của họ cho thấy quan điểm nầy. Hơn nữa, qua bao nhiêu ngàn năm nay con người lúc nào cũng có đủ loại tôn giáo tràn ngập trong đời sống tuy vậy mức độ “vô đạo đức” và hỗn loạn, vô trật tự trong xã hội nói chung vẫn không hề giảm sút. Tôi do đó cho rằng sự nhận thức thiện ác và trách nhiệm tự nguyện của mỗi cá nhân rất có thể sẽ hữu hiệu hơn nhiều trong phương diện nầy.

Có người cho rằng nếu không tin vào đầu thai, luân hồi thì đời sống ngắn ngủi nầy vô nghĩa quá vì như vậy thì tóm lại “con người chỉ sinh ra để đau khổ rồi chết”.

Tôi cho rằng đó là một cách nhìn của người tiêu cực. Trong khoản thời gian giữa sự sinh ra và sự chết, mỗi người có thể chinh phục được sự đau khổ và sự sợ hãi về cái cái chết để sống thật sự cho chính mình hơn. Đời sống quả là ngắn ngủi nhưng nếu một người cần phải tin có đầu thai và luân hồi để thấy đời sống họ có ý nghĩa thì họ đang không sống trọn vẹn và phí phạm đời sống hiện tại của họ.

Cái triết lý mà tôi chủ trương khuyến khích việc cảm nhận sự tuyệt vời của cái mong manh và hữu hạn của sự sống.

No comments:

Post a Comment