Hỏi: Anh nghĩ gì về Phật Giáo?
Đáp: Theo tôi Phật Giáo có nhiều tư tưởng rất "tiến bộ" so với một số tôn giáo khác. Tôi không có vấn đề gì nhiều với lý thuyết Phật Giáo nói chung; tuy nhiên phương cách thực hành của Phật Giáo trong xã hội có rất nhiều điều cần được lưu ý.
Hỏi: Tại sao anh không có vấn đề gì nhiều với lý thuyết Phật Giáo nói chung?
Đáp: Vì theo tôi thì phần lớn vũ trụ quan trong lý thuyết Phật Giáo mang nhiều điểm tương đồng (mặc dù rất có thể chỉ là vô tình) với cái nhìn của khoa học tự nhiên ngày nay. Nhân sinh quan của Phật Giáo cũng khá tương đồng với (cũng có thể vì là xuất xứ của) nhiều quan điểm của tôi.
Hỏi: Xin anh cho thí dụ về vũ trụ quan của Phật Giáo có nhiều điểm tương đồng với cái nhìn của khoa học tự nhiên.
Đáp: Thí dụ như khái niệm “vô thường” (có nghĩa là “không vĩnh cửu”) của Phật Giáo cho rằng bản chất của mọi sự vật là biến chuyển không ngừng, không có gì vĩnh hằng; ngay cả vũ trụ cũng không có điểm khởi đầu, không có điểm chấm dứt, và sự biến hiện của thế giới cứ theo chu trình sinh - trụ - dị - diệt mãi mãi. Tuy rằng rất có thể chỉ là một sự ngẫu nhiên nhưng có thể nói rằng khái niệm “vô thường” từ mấy ngàn năm trước đã diễn tả xác thực bản tính của vật chất đúng theo lý thuyết hiện đại nhất của các ngành lượng tử học, thiên văn học, vũ trụ học.
Hỏi: Một thí dụ khác?
Đáp: Thí dụ như các khái niệm như “nhân quả”, “nghiệp phước” đều có thể được giải thích dựa theo nguyên lý bảo toàn năng lượng của vật lý học.
Hỏi: Một thí dụ khác nữa?
Đáp: Thí dụ như khái niệm “hằng hà sa số thế giới” tương ứng với giả thuyết “đa vũ trụ” cho rằng có vô số vũ trụ cùng hiện hữu trong cùng một không gian nhưng có cấu trúc vật chất cơ bản mang tần số rung động khác nhau do đó không cảm nhận được lẫn nhau.
Hỏi: Xin anh cho thí dụ về những điểm mà nhân sinh quan của Phật Giáo tương đồng với nhiều quan điểm của anh.
Đáp: Thí dụ như khái niệm cho rằng mỗi người tự chịu trách nhiệm với chính họ về mọi vấn đề trong đời sống họ. Thuyết Phật dạy rằng mỗi cá thể chịu trách nhiệm về sự tiến hóa hay thoái hóa của trạng thức tâm linh của họ; không ai có thể cứu rỗi hay giải thoát giùm cho ai khác hết; chỉ có tự mỗi người mới có thể làm thay đổi vận mạng của họ mà thôi. Thuyết Phật cũng dạy rằng vận mạng của mỗi người bị chi phối bởi một quy luật tự nhiên trong vũ trụ gọi là luật Nhân Quả; luật Nhân Quả nầy hoàn toàn khách quan, không thiên vị, không có giới hạn và không có nhân tính.
Hỏi: Một thí dụ khác?
Đáp: Thí dụ như quan niệm cần phải tự suy ngẫm, tìm tòi, chất vấn và dùng kinh nghiệm bản thân trong quá trình tu học để cảm nhận Phật pháp chớ không nên chấp nhận những lời giảng dạy từ kinh sách hay tăng sư một cách đương nhiên.
Hỏi: Một thí dụ khác nữa?
Đáp: Thí dụ như khái niệm rằng các phương cách diễn tả trong Bát Chính Đạo như Chính Kiến (hiểu biết chân chính), Chính Tư Duy (suy nghĩ chân chính), Chính Ngữ (phát ngôn chân chính), Chính Tinh Tiến (siêng năng tìm học), Chính Định (tĩnh tâm và tập trung tư tưởng), v.v. có thể sẽ dẫn đến trạng thái giải thoát, an lành, sáng suốt và chấm dứt sinh tử, luân hồi gọi là Niết Bàn. Tôi cũng cho rằng sự siêng năng tìm học, kiến thức, hành vi cùng ngôn ngữ chân chính, sự an tịnh trong tâm hồn, v.v. là những phương tiện đưa đến hạnh phúc bền vững nhất.
No comments:
Post a Comment